.

Đò Chiều cảm ơn các bạn ghé thăm chia sẻ

Thứ Bảy, 6 tháng 2, 2010

NHỚ BẾP LỬA XƯA

NHỚ BẾP LỬA XƯA
07:02 6 thg 2 2010Công khai10 Lượt xem  

Chao ôi nhanh quá! Vậy là một năm nữa sắp đi qua với bao niềm vui và nhung nhớ! Đến ngày cúng ông Công ông Táo, vì nhớ quê hương da diết cùng bao ký ức của ngày xưa một thời vô tư tươi đẹp của tuổi thơ tôi, xin được kết nối bạn bè đăng bài tản văn NHỚ BẾP LỬA XƯA từ MIỀN SÁNG SÔNG TRĂNG.
NHỚ BẾP LỬA XƯA
(Tản văn của Dương Phượng Toại)
Theo yêu cầu của bà xã, tôi hý hoáy vẽ một bức tranh thần Táo Quân treo trên bức tường nhà bếp để sắp sửa cho việc ngày mai 23 tháng Chạp làm lễ cúng tiễn ông Táo về trời. Gọi là nhà bếp, chứ thật ra đó là nhà ăn mới đúng. Bởi vì nhà bếp thì phải có kiềng, có bếp đun rơm, đun củi, hoặc lò than dùng than cám, than bùn thổi nấu. Ngày xưa bếp đặt ba ông Đầu Rau nặn bằng đất chụm đầu hướng vào nhau cho ngọn lửa thoả thuê tưng bừng nhảy múa, cháy rực. Đằng này nhà bếp nhà tôi bây giờ chẳng thấy bếp, chẳng có củi, chẳng có rơm đâu. Nhà bếp cứ như phòng khách. Chỉ có chiếc bếp ga vuông vắn khi nào bật đánh tách một cái mới phụt lên ngọn lửa xanh lét. Nấu chín thức ăn xong phải vội vã tắt ngay, khoá bếp lại kẻo tốn ga. Cơm thì nấu bằng nồi điện. Nông thôn đời mới hoá phố mà. Những hôm nào nhà có việc giỗ kỵ, có tiệc lớn thì  chất  bếp, xếp lò nấu ngoài sân, ngoài vườn mới làm được hàng chục mâm cỗ... Các con tôi đã có đứa từng chất vấn:
- Nấu bếp ga đã sạch lại tiện. Chả lẽ là nông dân thì cứ phải chịu mãi cảnh đầu tắt mặt tôi, rơm rạ sụt sùi, nấu được bữa cơm mổ hôi mồ kê nhễ nhại? Đời các cụ, ông bà, cha mẹ đã cực nhọc, vất vả nhiều rồi. Giờ đến thời “a còng” văn minh, hiện đại, cũng phải để con cháu nó vươn lên, ngẩng đầu với thiên hạ chứ!...
 Bức tranh thần Táo Quân với chiếc mũ cánh chuồn được treo lên. Mấy đứa cháu thích chí vỗ tay:
-Ôi đẹp quá! Thích quá!
-Sao ông không vẽ giống ông Bao Công to béo cho oai?
-Ông ơi! Ông này gầy quá! Ăn bao nhiêu thứ trong bếp nhà mình mà không mập không béo, ông nhỉ?
Nghe chúng rối rít, tôi bật cưòi:
-Ông ấy chỉ ngửi hương vị, mùi vần thôi, chứ có ăn bao giờ được đâu! Bao nhiêu thứ nấu ra đều ông cháu mình xơi cả! Rồi tôi giảng giải, nói đùa: Đây chỉ là hình tượng thần Táo Quân các cháu ạ! Ông ấy gầy thì sang năm bà mua nhiều thứ của ngon vật lạ về nấu cho ông ấy béo! Nhờ đó ông cháu mình lại được thêm phần cải thiện cơm no rưọu say...
Còn một chút thời gian nữa thôi là đến lúc ông Táo cưỡi Cá Chép về Trời báo cáo lại tình hình làm ăn, nấu nướng, ẩm thực trong một năm qua của mọi nhà, trong đó có nhà tôi. Chắc chắn thế nào ông cũng phải báo cáo đúng sự thật về việc nhà tôi đã “phế truất” ba vị Táo cũ khi sắm chiếc bếp ga Paloma chính hiệu Nhật Bản cùng chiếc nồi cơm điện Thái, chiếc siêu điện Trung Quốc kia! Đành chịu lỗi với Ngọc Hoàng thượng đế thôi. Nhưng bù lại, nhà tôi cuối năm vẫn nhớ tục cúng Vua Bếp cơ mà!
Nhìn ngắm bức tranh, tôi lại bâng khuâng nhớ tuổi thơ mình ngày xưa gắn liền với ba ông Vua Bếp ngự khiêm tốn trong góc căn nhà ngang lợp mái tranh.. Trong căn nhà nhỏ ấy chất đầy đủ thứ: nào chạn đựng bát, thùng trấu, hũ mắm cáy, vại cà, nào chiếc cối xay, cối giã gạo, rồi rơm rạ, củi khô, lá mục… làm chất đốt dự trữ. Đống rơm to chất ngất ngoài góc vườn thì vừa để làm thức ăn cho trâu vừa làm thức ăn cho Vua Bếp để ông nuôi ngọn lửa quanh năm.
Mùa hè, anh em chúng tôi thường dậy sớm trước hết tranh thủ đun nước pha trà cho cha, tiếp đun nồi cơm húi xuống cạnh đống tro, rồi nấu nồi cám lợn. Tôi vừa cời những mảng tro hồng rực ra cạnh nồi cơm, vừa dùng đôi đũa bếp như mái chèo nguấy nồi cám to đùng cho nhanh chín. Mẹ tôi thoăn thoắt bện một con bùi nhùi rơm đem vào quấn quanh nồi cơm, kín cả lên chiếc vung cho ngọn lửa bén âm ỉ. Mẹ dạy tôi: Làm thế này cơm sẽ đượm nhiệt, chín rền và ngon hơn! Nếu nấu bằng niêu đất thì con phải đun dè chừng sao cho vừa lửa để niêu không nổ, cơm không bị cháy khê…
Tôi được một thời chứng kiến bà và mẹ, rồi chính tôi cũng được nấu cơm bằng niêu đất. Gạo tám nấu niêu thật ngon cơm, giòn cháy, mở vung ra cả xóm cùng ngào ngạt hương thơm. Sau này cả làng nấu cơm bằng nồi đồng, rồi nồi nhôm “quốc doanh”, nồi nhôm đúc bẳng vỏ đuyra máy bay Mỹ bị bắn rơi…
Tôi hay dùng một cành tre pheo nhỏ để làm cây đun bếp, ngồi xa với tay đẩy rơm vào lòng bếp cho đỡ rát mặt. Lắm lúc mồi rơm bén nhanh quả, bốc ngùn ngụt liếm sát lên mái gianh, liếm cả vào lông mày tôi. Mẹ tôi dọn dẹp bên ngoài, hốt hoảng: “Đè rơm xuống cho lửa nhỏ con ơi, kẻo cháy cơm, cháy cả nhà bây giờ!...”
Hình như ngửi thấy mùi cám nóng quen thuộc, lũ lợn đã lục rục dậy gác mõm lên tấm gỗ cửa chuồng kêu eng éc. Đàn gà cũng mổ nhau chí choé cùng đàn vịt chạy ào ào xuống mặt ao. Đám chim bồ câu xập xoè vỗ cánh và cất tiếng gù đùng đục trong chuồng treo trên chái hồi, dưới lùm cây… Không gian nhà cửa, vườn tược và làng quê rộn rực trong tiếng bếp reo quyện những làn khói lam toả mùi ngai ngái…
Mùa đông lại khác. Đứa nào cũng xí được đun bếp, đứa nào cũng muốn ngồi sát xoè bàn tay trên ngọn lửa. Khói phả vào mắt cay xè, vẫn xán cạnh bếp vừa xụt xịt vừa ngoảnh mặt phẩy khói về phía khác. Con mèo cũng ngồi bên đám tro, đôi mắt lim dim, hai cánh mũi phập phồng thở khò khè như một ông già mắc chứng hen xuyễn. Có lúc ngọn lửa tạt ra, loáng cái đã lia mất một đoạn bộ ria cong vút của nó. Mẹ tôi gắt nhỏ: “Xua con mèo ra ngoài. Cháy mất râu thì làm sao nó bắt chuột được?”
Năm nào cũng vậy, cứ giáp Tết, trước ngày 23 tháng Chạp âm lịch, thế nào mẹ cũng sai chúng tôi ra đồng lấy đất sét khô về giã nhỏ trộn với bủi cám, nhào xâm xẩm nước cho dẻo, cho săn mịn, rồi nặn ba ông Đầu Rau mới để thay vào chỗ ba ông Đầu Rau cũ đã sứt mẻ, đen cháy vì tôi luyện trong lửa. Mẹ mua con cá chép to bằng hai ngón tay về thả vào chậu thau nước. Sau một hồi tất bật nấu nướng, mẹ xếp cỗ lên chiếc mâm gỗ đã sờn mép cho cha tôi thắp ba nén hương cắm vào đĩa xôi còn bốc hơi thơm nức. Cha lầm rầm khấn vái trước ba ông Vua Bếp, cầu cho nhân khang vật thịnh, làm ăn phát tài phát lộc, cầu cho cửa nhà bình an, tránh khỏi hoả hoạn, thiên tai, dịch bệnh...
Liệu cơ, mẹ bảo anh em chúng tôi mang con cá chép ra bến sông Cổ Luỹ ở đầu làng và thả xuống để phóng sinh cho nó. Con cá quẫy nhẹ một cái rồi biến mất vào dòng nước trong xanh. Chắc là nó xuyên qua dòng nước sông quê về với sông ngòi, đồng áng. Tôi thầm khấn mong cho nó được ra tận ngoài sông Chanh, sông Bạch Đằng và tận xa đâu nữa để cùng chúng bạn hoá Rồng! Không biết con nào sẽ được Ông Táo chọn để cưỡi vượt mây lên chầu Trời phiên họp cuối năm?  
Xong các thủ tục cúng bái, cả nhà tôi quây quần quanh mâm cỗ để thụ lộc. Tôi thường vừa ăn vừa ngắm nhìn ba cục đất còn tươi nguyên màu đất ruộng cày mà anh em chúng tôi nặn rất khéo. Năm nay nhà mình lại làm bạn với Vua Bếp mới! Thường những lúc ấy, cha tôi lại kể sự tích ba ông Vua Bếp cho cả nhà nghe. Mẹ tôi thì bảo: Để là cục đất, dô lên thành ông Bụt! Dù sao người ta cũng là Thần! Ngồi đun bếp, các con chớ khạc nhổ bừa bãi vào đấy!...
Sau này lớn lên tôi mới hiểu ý nghĩa câu nói đó. Dẫu sao, tuổi thơ anh em chúng tôi cũng may mắn, mặc dù đời sống thời bấy giờ rất kham khổ, túng thiếu, đã có được những ký ức vô tư với ba ông Đầu Rau-ba ông Vua Bếp, với vị thần cai quản bếp núc của nhà tôi, của mọi gia đình nơi thôn dã...
Cuộc sống thay đổi đến đâu, văn minh đến mức nào, qua thời bếp điện, bếp ga, mai kia khoa học cực kỳ phát triển, người ta có thể nấu bằng nhiệt lượng ánh sáng… Nhưng chắc chắn hình ảnh Ông Táo vẫn mãi mãi còn trong tiềm thức chúng tôi và mỗi nguời dân làng quê Việt. Hương cơm gạo tám mẹ nấu bằng niêu đất như vẫn còn thơm thoảng… Giọng kể trầm ấm của cha: Ngày xửa ngày xưa có ba ông Vua Bếp… như vẫn còn văng vẳng đâu đây!

                                            6-2-2010 (23-Chạp Kỷ Sửu)
                                            Ngày cúng ông Táo về Trời

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bạn có thể dùng thẻ sau để:

- Post hình : [img] link hình [/img]

- Post video: [youtube] link youtube [/youtube]